Truy cập nội dung luôn
SỞ CÔNG THƯƠNG

TỈNH QUẢNG NGÃI

Tình hình hoạt động thương mại tỉnh Quảng Ngãi tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2023

10/05/2023 07:39    168

Tháng 4 năm 2023, Sở Công Thương Quảng Ngãi tiếp tục triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, hộ sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh tham gia các hội chợ, hội nghị nhằm kết nối giao thương, tìm kiếm cơ hội hợp tác, mở rộng thị trường tiêu thụ, thiết lập mối quan hệ hợp tác, đưa sản phẩm tỉnh Quảng Ngãi đến các nhà phân phối, hệ thống bán lẻ lớn trong nước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2023 tăng so với cùng kỳ năm trước.

Theo đó, tổ chức “Ngày thương hiệu Việt Nam” 20 tháng 4 năm 2023; tổ chức khu trưng bày giới thiệu các sản phẩm OCOP và sản phẩm đặc trưng của tỉnh tại Triển lãm - Hội thi - Hội chợ sinh vật cảnh tỉnh Quảng Ngãi năm 2023; hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các hội chợ, hội nghị: Hội chợ Thương mại Quốc tế Việt Nam lần thứ 32 (VIETNAM EXPO 2023) tại thành phố Hà Nội từ ngày 05/4/2023 đến ngày 08/4/2023; Hội nghị tổng kết Chương trình hợp tác phát triển kinh tế - xã hội giữa Thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh vùng Duyên hải Nam Trung Bộ tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa diễn ra từ ngày 14/4/2023 đến ngày 15/4/2023; Hội nghị hợp tác giữa các địa phương Việt Nam và Pháp lần thứ 12 tại Thành phố Hà Nội từ ngày 14/4/2023 đến ngày 16/4/2023.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4 ước đạt 5.832 tỷ đồng, tăng 2,1% so với tháng trước và tăng 9,7% so với tháng 4/2022. Luỹ kế 4 tháng đầu năm tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 23.321 tỷ đồng, bằng 33,2% kế hoạch năm 2023 (KH: 70.200 tỷ đồng) và tăng 11,7% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: Tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 18.170 tỷ đồng, tăng 9,1%; dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 3.601 tỷ đồng, tăng 23,6%; du lịch ước đạt 7,6 tỷ đồng, tăng gấp 5 lần; dịch vụ tiêu dùng khác ước đạt 1.542 tỷ đồng, tăng 18,2%.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2023 giảm 0,53% so với tháng trước, tăng 2,55% so với tháng 4/2022 và tăng 0,69% so với tháng 12/2022. Bình quân 4 tháng đầu năm 2023, CPI tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước.

Kim ngạch xuất khẩu tháng 4/2023 ước đạt 214,6 triệu USD, tăng 23,9% so với tháng trước và tăng 14% so với tháng 3/2022 (nguyên nhân tăng chủ yếu là Nhà máy thép Hòa Phát xuất khẩu tháng 4/2023 tăng 46,3 triệu USD so với tháng 3). Lũy kế 4 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 720 triệu USD, giảm 1,7% so với  cùng kỳ năm trước và đạt 34,4% kế hoạch năm (KH: 2.100 triệu USD).

Mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ: Tinh bột mỳ ước đạt 74 triệu USD, tăng 29,7%; sản phẩm cơ khí ước đạt 60,4 triệu USD, tăng 74%; hàng hóa khác (cuộn cảm, thiết bị, hệ thống điều phối khí xả, bọc đệm ghế, đệm lò xo, bộ phận của ghế, bộ dây điện, bộ dây nguồn, nệm mút, bộ dây truyền dẫn điện trong ô tô ) ước đạt 158,9 triệu USD, tăng 7,2%.

Mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ: Thủy sản chế biến ước đạt 8,9 triệu USD, giảm 3,5%; đồ gỗ ước đạt 2,1 triệu USD, giảm 3,6%; dăm gỗ nguyên liệu giấy ước đạt 43 triệu USD, giảm 30,7%; may mặc ước đạt 29,8 triệu USD, giảm 3,8%; dầu FO ước đạt 25 triệu USD, giảm 36,8%; sơ, sợi dệt các loại, vải ước đạt 44,8 triệu USD, giảm 16%; thép ước đạt 211 triệu USD, giảm 9,4%.

Kim ngạch nhập khẩu tháng 4/2023 ước đạt 302 triệu USD, giảm 12% so với tháng trước và giảm 27,6% so với tháng 4/2022.  Lũy kế 4 tháng đầu năm 2023, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 1.196 triệu USD, giảm 8,7% so với cùng kỳ năm trước và đạt 36% kế hoạch năm (KH: 3.320 triệu USD).

Kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của tỉnh đều giảm so với cùng kỳ năm trước phản ánh sự khó khăn của doanh nghiệp đối với thị trường xuất khẩu, dẫn đến nhập khẩu nguyên, phụ liệu cũng giảm so với cùng năm trước. Nguyên nhân, nhu cầu thị trường thế giới giảm do ảnh hưởng lạm phát, ảnh hưởng chiến sự Nga – Ukraine và căng thẳng trong quan hệ thương mại giữa Mỹ, châu Âu và Trung Quốc; bên cạnh đó, Trung Quốc mở cửa trở lại sau Covid-19 cũng tạo nhiều áp lực cạnh tranh đối với hàng xuất khẩu cùng chủng loại của Việt Nam nói chung và của tỉnh nói riêng.

TƯỜNG VI